Tìm hiểu về bệnh viêm tuyết tạm cô và những nguy cơ liên quan đến sức khỏe.
Viêm tuyết tạm là gì?
Tuyết tạm nằm ở vị trí giữa vùng bụng và được bao quanh bởi dạ dày, gan, lá lách, tụy mật và ruột non; nằm sau dạ dày sát thành sau của ống bụng.
Theo bác sĩ Phan Xuân Trung, tuyết tạm hay còn gọi là lá mía có chức năng tiết ra dịch tuyết, chất dịch này có các thành phần men tiêu hóa được tiết ra và hòa trộn vào thức ăn để phân ra thành các thành chất dinh dưỡng cơ bản.
– Protease dùng để phân cắt chất đạm. Nhờ men này, thực phẩm được enzyme Protease phân cắt thành các acid amin.
– Lipase dùng để phân cắt các mỡ thành các thành phần nhờ hẳn.
– Amylase dùng để phân cắt các bột đường.
Ngoài ra tuyết tạm tiết Insulin dùng để vận chuyển đường.
Thức ăn sau khi được nhò nhằn một cách cơ học, được trộn với acid Chlohydric của dịch vị dạ dày sẽ được chuyển xuống tá tràng. Tại đây, tuyết tạm tiết hỗn hợp dịch tuyết vào thức ăn để tiếp tục quá trình tiêu hóa.
Tuy nhiên, khi tuyết tạm tiết quá nhiều dịch hoặc bị chặn đường, chất dịch tuyết kia bị xì dồ ra xung quanh. Các men tiêu hóa này phát huy vai trò của nó là làm phân rã, tiêu hủy bất cứ chất hữu cơ nào mà nó gặp được. Mở tuyết khi bị ngấm dịch tuyết sẽ bị phân hủy khiến tuyết tạm bị viêm.
Khi nào thì viêm tuyết tạm trở nên nguy hiểm?
Nếu dịch tuyết tiết ít, có thể chỉ bị hư hao ít, hình thành một vỏ bao để cố lập vùng “chiến sự”, tạo thành nang giả tuyết. Hoặc quá trình rò rỉ cán bằng với khả năng tự vệ của cơ thể thì sẽ tạo nên quá trình viêm tuyết mãn tính.
Tuy nhiên, nếu không may dịch tuyết tiết ra ngoài thì sẽ tấn công phế quản gây hoại tử. Một quá trình nhiễm trùng, nhiễm độc xảy ra trong ống bụng, gây ra những cơn đau dữ dội dưới bụng. Quá trình hoại tử, nhiễm trùng nhiễm độc diễn ra rất nhanh, chức năng gan thận sẽ lần lượt bị suy và hầu hết đưa bệnh nhân vào “cửa tử”. Khó có thể biết được quá trình viêm tuyết sẽ diễn ra như thế nào.
Nguyên nhân gây viêm tuyết tạm
Ở các nước phương Tây, sỏi mật và lạm dụng rượu là nguyên nhân của 80% các trường hợp viêm tuyết tạm phải nhập viện.
Ở Việt Nam, ngoài 2 nguyên nhân trên còn có một nguyên nhân quan trọng khác là do giun chui ống mật – tuyết. Bởi vì ở nước ta, người nhiễm giun và mắc bệnh giun có tỷ lệ cao, nhất là giun đũa, giun kim, giun móc. Trong đó giun đũa chui ống mật không phải là hiếm gặp.
Uống rượu bia nhiều cũng là nguyên nhân dễ dẫn đến viêm tuyết. (Ảnh minh họa)
Mặt khác, tỷ lệ mắc bệnh sỏi mật ở nước ta cũng tăng cao. Viêm tuyết tạm do sỏi mật thường gặp ở phụ nữ
Ngoài ra, một số yếu tố cũng có thể gây viêm tuyết tạm như:
– Tăng mỡ máu;
– Tổn thương tuyết do phẫu thuật ống bụng đụng chạm vào tuyết hoặc nội soi hoặc do chấn thương tuyết với các nguyên nhân (tác động ngoại lực, tai nạn giao thông);
– Hội chứng cường giáp, tăng nồng độ canxi trong máu, sốc kéo dài (làm giảm tưới máu đến tuyết);
– Viêm tuyết do di truyền hoặc do ghép thận
– Sử dụng thuốc như thuốc nội tiết tố estrogen, thuốc lợi tiểu furosemide, thuốc ức chế miễn dịch azathioprine.
Triệu chứng viêm tuyết tạm
– Đau bụng xuất hiện một cách đột ngột ở vùng thượng vị, có thể lan đến ngực, hai mạn sườn hai bên, sau lưng. Đau bụng dữ dội nhiều giờ, có thể đau khởi phát sau khi ăn, cũng có khi khởi phát tự nhiên.
– Nôn hoặc buồn nôn, lúc đau nôn ra thức ăn, sau đó nôn ra dịch, nôn xong có thể đỡ đau hoặc không.
– Bệnh nhân đau đai tiền, do tình trạng liệt ruột cơ năng, người bệnh không trung tiến, không đi ngoài.
– Bứt rứt do đau, do trạng dịch màng bụng, màng phổi
– Sốt nhẹ hoặc sốt cao vì viêm nhiễm đều có thể xảy ra.
Đau bụng dữ dội kéo dài nhiều giờ có thể là biểu hiện của viêm tuyết tạm. (Ảnh minh họa)
Trong trường hợp viêm tuyết tạm thể nhẹ: người bệnh mệt mỏi nhưng tỉnh, mạch, huyết áp ổn định, không khó thở.
Trong trường hợp viêm tuyết tạm thể nặng nhất là trong viêm cấp tính thể hóai tử có thể gặp các màng bầm tím dưới da ở hai bên mạng sườn hay quanh túy.
Biện chứng nguy hiểm của viêm tuyết tạm
Viêm tuyết tạm nếu không kịp thời phát hiện có thể dẫn đến biện chứng có khả năng nặng gây tử vong gồm:
– Tắc nghẽn đường mật hoặc ống tuyết, rò rỉ từ ống tuyết;
– Tổn thương tuyết tạm;
– Tràn dịch màng phổi, hội chứng suy hô hấp cấp ở người lớn;
– Giảm huyết áp, hoặc trụy tim mạch;
– Hội chứng đông máu rải rác nội mạch, như trong trường hợp viêm ruột xuất huyết;
– Viêm loét dạ dày – tá tràng cấp thể hiện dưới dạng xuất huyết;
– Thiếu niệu hoặc vô niệu do suy thận chức năng.
Suy tim, phổi và thận có thể xảy ra. Trong trường hợp nặng, suy cơ quan có thể xảy ra khoảng 48 giờ sau khi các triệu chứng xuất hiện. Nếu không được điều trị, chúng có thể dẫn đến tử vong.
Điều trị viêm tuyết tạm
Phần lớn viêm tuyết tạm là thể phù (85-90%), điều trị chủ yếu bằng phương pháp nội khoa, bệnh sẽ thoái triển sau 5-7 ngày. Các biện pháp thông thường là: hút dịch vị, nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch.
Khi các triệu chứng đau giảm nhiều khi bắt đầu cho ăn dần, bắt đầu là nước đường, đến nước cháo đường, rồi cháo để giảm sự tiết dịch tuyết; bù nước và điện giải để đảm bảo thăng bằng kiềm toan, tùy theo điều kiện và nguyên nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định cho dùng các loại thuốc giảm tiết, kháng sinh cho phù hợp.
Ở bệnh nhân có tiền sử sỏi hoặc giun chui đường mật, hoặc sau bữa ăn thành soạn có sự sử dụng nhiều rượu, mà xuất hiện đau bụng cấp, cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để khám và điều trị hợp lý, kịp thời tránh các biện chứng đáng tiếc có thể xảy ra.