Bài viết là một trong những kết quả nổi bật của ngành BHXH Việt Nam trong việc thực hiện chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
Thông tin tại hội nghị cho thấy, BHXH Việt Nam là một trong bốn ngành đã triển khai rất tốt chuyển đổi số với 100% dịch vụ công trực tuyến. BHXH Việt Nam đã cung cấp 25/25 (100%) thủ tục hành chính dưới dạng dịch vụ công trực tuyến; các dịch vụ công được cung cấp trên nhiều nền tảng: Cổng dịch vụ công BHXH Việt Nam, Cổng dịch vụ công quốc gia, ứng dụng VssID, các nhà cung cấp dịch vụ IVAN. Số giờ thực hiện thủ tục hành chính đã giảm 86%.
Hằng năm có khoảng 13,5 triệu hồ sơ giao dịch điện tử (nếu tính số lượng hồ sơ gần với từng người lao động là gần 100 triệu hồ sơ giao dịch điện tử).
Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh cho biết: Người dân đi khám chữa bệnh BHYT gặp nhiều thuận lợi, chỉ cần sử dụng CCCD gần chíp hoặc VNeID để làm thủ tục khám chữa bệnh, giảm gánh nặng thủ tục, tiết kiệm thời gian cho cả người bệnh và cán bộ y tế, cơ quan BHXH cũng tiết kiệm được chi phí in ấn và phát hành thẻ BHYT.
Khi thực hiện dịch vụ khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế (BHYT), người dân có thể lựa chọn sử dụng ứng dụng VssID, VNeID hoặc thẻ căn cước công dân (CCCD) gần chip để làm thủ tục khám chữa bệnh BHYT thay cho thẻ BHYT giấy. 100% cơ sở khám chữa bệnh BHYT đã triển khai khám chữa bệnh BHYT bằng VssID, VNeID và thẻ CCCD gần chip. Người dân đi khám chữa bệnh BHYT gặp rất nhiều thuận lợi, chỉ cần sử dụng CCCD gần chip hoặc VNeID để làm thủ tục khám chữa bệnh, giảm gánh nặng thủ tục, tiết kiệm thời gian cho cả người bệnh và cán bộ y tế, cơ quan BHXH cũng tiết kiệm được chi phí in ấn và phát hành thẻ BHYT.
Ngoài ra, BHXH Việt Nam đã hỗ trợ Bộ Y tế liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chứng sinh, giấy bảo tử. Nền tảng quan trọng để triển khai các dịch vụ công trực tuyến (cấp đổi, cấp lại giấy phép lái xe và 02 nhóm thủ tục hành chính liên thông đăng ký khai sinh – đăng ký thừa kế – cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi và đăng ký khai tử – Xóa đăng ký thừa kế – Hỗ trợ chi phí mai táng.
Sắp tới, đây là nền tảng sử dụng chung để BHXH Việt Nam phối hợp cùng Bộ Y tế, Bộ Công an triển khai Hệ thống xử lý sức khỏe và Sổ sức khỏe điện tử, giấy chuyển tuyến, giấy hẹn khám lại trên VNeID.
Trong bài tham luận tại hội nghị, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh nhấn mạnh, BHXH Việt Nam luôn xác định công tác chuyển đổi số là nhiệm vụ quan trọng của Ngành để ngày càng tạo ra nhiều tiện ích, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp.
Với phương châm hành động “lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo của sự phục vụ”, BHXH Việt Nam đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên tất cả các lĩnh vực, nhằm đảm bảo hoàn thành mức cao nhất các mục tiêu đề ra.
Một số kết quả nổi bật của BHXH Việt Nam về chuyển đổi số trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công của ngành phải kể đến như: 100% người tham gia được thu thập thông tin trong CSDL của ngành. CSDL của BHXH Việt Nam đã xác thực hơn 98,2 triệu thông tin nhân khẩu, trong đó có khoảng 87,9 triệu người đang tham gia, thụ hưởng BHXH, BHYT, BHTN, chiếm 98,2% tổng số người tham gia (không bao gồm lực lượng vũ trang, thân nhân quân đội) với CSDL quốc gia vệ dân cư.
Dữ liệu của BHXH Việt Nam là dữ liệu phát sinh từ quá trình thực hiện TTHC liên quan đến quản lý thông tin, đồng, hưởng các chế độ đảm bảo nguyên tắc “đủ, đầy đủ, sống”. BHXH Việt Nam lấy việc hoàn thiện dữ liệu làm trung tâm, nền tảng cho hoạt động chuyển đổi số toàn diện, là cơ sở quan trọng để liên thông, chia sẻ, phục vụ quản lý của Ngành và cải cách TTHC.
100% quy trình nghiệp vụ của ngành được thực hiện liên thông trên môi trường điện tử các kết quả được số hóa toàn diện. Các quy trình nghiệp vụ của ngành được tái cấu trúc một cách triệt để nhằm giảm thiểu tối đa thời gian giải quyết thủ tục hành chính.
Toàn ngành BHXH Việt Nam đang có gần 30 hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin quản lý các quy trình nghiệp vụ, với hơn 20 nghìn tài khoản trong ngành thường xuyên truy cập, khai thác và sử dụng để thực hiện các nghiệp vụ của Ngành, theo đó người dân có thể giao dịch với cơ quan BHXH 24/7 nhanh nhất, cải cách, thuần lợi nhất.
100% các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trong đó 100% dịch vụ công đầy đủ điều kiện được cung cấp ở mức độ dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Hiện nay có khoảng 621 nghìn tổ chức, doanh nghiệp, người sử dụng lao động đang giao dịch điện tử với cơ quan BHXH thông qua các cổng dịch vụ công. 100% người dân có tài khoản định danh (VNeID) mức độ 2 có thể thực hiện các dịch vụ công trực tuyến của ngành BHXH Việt Nam. Hiện nay, có khoảng 13 nghìn cơ sở y tế kết nối, liên thông trực tiếp với BHXH Việt Nam để thực hiện dịch vụ công thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT cho khoảng 170 triệu lượt người khám chữa bệnh BHYT một năm.
Với công nghệ sinh trắc ứng dụng trên căn cước công dân gần chip, VNeID, VssID, chỉ mất khoảng 6-15 giây để hoàn thành thủ tục đăng ký khám chữa bệnh BHYT, thay vì mất tối thiểu 10 phút như trước đây…
100% người hưởng các chế độ đầm đau thai sản, dưỡng sức và trợ cấp BHTN thông qua tài khoản ngân hàng; 74% người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng tại khu vực đô thị đang được cơ quan BHXH chi trả qua tài khoản ngân hàng. Hằng năm có khoảng 9 triệu lượt người hưởng các chế độ đầm đau, thai sản, dưỡng sức, 1,1 triệu người hưởng trợ cấp BHTN; hàng tháng có khoảng 2 triệu người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng.
Theo BHXH Việt Nam, cơ quan này luôn coi công tác chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, động lực tăng trưởng, thực hiện với tinh thần quyết liệt, “chỉ bắn là làm, không bắn lùi”. Toàn ngành luôn xác định lấy người dân, doanh nghiệp là chủ thể, là trung tâm để phục vụ; để người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng những thành quả từ chuyển đổi số của ngành BHXH Việt Nam mang lại, trên tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau; minh bạch hóa và tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, ngành BHXH Việt Nam luôn thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch hoạt động năm 2024 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và các nhiệm vụ trong Đề án 06. Lấy kết quả thực hiện các chỉ tiêu là thước đo để đánh giá hiệu quả trong việc triển khai chuyển đổi số và thực hiện Đề án 06. Ưu tiên mới nguồn lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao.