Câu chuyện về cô Bình, người mang trong mình vẻ đẹp rạng ngời và những điều kỳ diệu trong cuộc đời.
Tiểu thư lẽ ngược cái vàng và mới tình “có duyên mà không có phận”
Trong Tứ đại mỹ nhân Hà thành xưa, cô Bình hàng Đẩy được xem là người có số phận may mắn hơn cả. Cô Bình tên thật là Đỗ Thị Bình sinh năm 1915, là một trong 19 người con của nhà tư sản Đỗ Lợi – một trong những thành viên của dòng họ Đỗ Bảo (thôn Tiên Lữ, huyện Lấp Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc).
Nói đến tên ông, mọi người đều kính cẩn gọi là cụ Lợi. Mặc dù tuổi ông chưa đến chức cụ, nhưng vì gia sản quá giàu có mà mọi người đều kiêng nể e dè. Khi ấy khoảng 20 công trình lớn nhất Hà Nội đều do cụ làm chủ thầu.
Cô Bình sinh ra đã sở hữu làn da trắng như trứng gà bóc, nét mặt dịu dàng thanh tú, chỉ thích mặc áo dài màu đen để tôn làn da trắng sứ tinh khôi. Cũng vì thế mà người Hà Nội thường gọi cô Bình là “giai nhân áo đen”.
Từ nhỏ, cô Bình đã có thói quen không ăn thịt gà. Cụ Đỗ Lợi vì muốn công chúa ăn món ngon mà luôn bữa nào cũng phải nấu cho vua Bảo Đại vịt. Trong một bữa cơm gia đình, cụ Đỗ Lợi còn tuyển bồ, nếu con gái chịu ăn một miếng thì ông sẽ thưởng một nhẫn kim cương, ăn hai miếng thì thưởng hai nhẫn kim cương. Song đừng tưởng thưởng lớn, cô Bình chỉ mỉm cười như ý từ chối.
Cụ Đỗ Lợi sau đó tiếp tục tuyển bồ sắp thưởng lớn cho công chúa nếu nghịch cách giúp con gái có ăn thịt gà. Mỗi sau đó, tất cả mọi bếp của triều đình nhà Nguyễn như món bún thang, cô Bình mỗi xuôi lòng.
Cô Bình sinh ra đã sở hữu làn da trắng như trứng gà bóc, nét mặt dịu dàng thanh tú.
Với gia đình bề thế, cô Bình từ nhỏ được cha mẹ cưng chiều như báu vật. Cô được gia đình cho đi học ở trường Tây. Được rèn dạy theo khuôn khổ, nên tính cách của cô nhu mì, đoan trang, công dung ngôn hành cũng đủ và cách ứng xử cũng rất mực quyến rũ.
Ngày ấy, cụ Lợi biết con gái có sở thích ngắm hoa nên đã cho người trồng cả giàn hoa hồng cùng phong lan trước sân nhà. Hình ảnh của cô tiêu thư ngày ngày ra ngoài ghé mái đổ tiêu thuyết ngắm hoa đã khiến chàng trai trẻ, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp – con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh say đắm.
Cô Bình (tiểu thư mứt đen có dáng ngồi ở vị trí thấp nhất) chụp ảnh với các chị em trong nhà.
Hàng ngày, ông đều mướn công đi qua ngôi nhà ở hàng Đẩy để có thể thưởng thức ngắm nhìn người đẹp. Họ chỉ trao nhau cái nhìn trọng rỗi kẻ ở người đi, tình trong như đã như những mặt ngoài còn e. Chuyện cứ thế kéo dài cả năm trời, tới một lúc cả hai gia đình đều biết. Song phía gia đình cô Bình chỉ cho rằng chàng nhà thơ này cũng chỉ như bao chàng trai khác. Vả lại, với Nguyễn Nhược Pháp cũng có nỗi lòng về sự mập cảm gia thế hai gia đình quá cách biệt.
Năm 1935, tập thơ “Ngày xưa” của Nguyễn Nhược Pháp ra đời, đưa ông lên thành một trong những cây bút hàng đầu của phong trào thơ mới. Qua những dòng chữ trong “Mẫy Nương”, “Tay ngà”, “Cô gái bên bờ ao”, người yêu thơ ai cũng hiểu được rằng, cảm hứng để đưa được lấy từ người đẹp Đỗ Thị Bình.
“Tóc xanh viền má hãy hây hây đỡ
Miêng nàn bề thẩm như san hô
Tay ngà trắng nõn, hai chân nhở”
Thế nhưng hai con người ấy xem như có duyên mà không có phận. Năm 1939, chàng thi sĩ trẻ qua đời khi tuổi đời chỉ mới 24 vì căn bệnh lao.
Hôn nhân ảm ảnh với chàng kỵ sỹ
Gần 1 năm sau sự ra đi của chàng thi sĩ trẻ, cô Bình được gia đình thuyết phục cho chàng kỵ sĩ Bùi Tướng Viên vừa du học ở Pháp về. Ông sinh ra trong gia đình danh giá vọng tộc, anh trai ông là Bùi Tướng Chiểu – một luật sư nổi tiếng thời bấy giờ. Sau này, Bùi Tướng Viên giữ chức Hiệu trưởng Trường Mỹ nghệ Đông Dương (tiền thân của Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội).
Dù là cuộc hôn nhân sắp đặt song hai người họ đã có cuộc sống hạnh phúc đến cuối đời. Ngày đầu vể nhà chồng, cô Bình còn chưa biết mặt chồng nên cũng tình cảm cưng cũng chưa có. Song sau một thời gian sống chung dưới mái nhà, sự nhịp nhàng, ân cần của chồng đã khiến cô Bình xiêu lòng.
Giai nhân Đỗ Thị Bình và ông Bùi Tướng Viên.
Là hôn sự giữa hai gia đình có tiếng nên đám cưới của giai nhân Đỗ Thị Bình và ông Bùi Tướng Viên được tổ chức vô cùng linh đình. Quan khách ra vào như trảy hội suốt mấy ngày liền. Ngày cưới, cô Bình khoác lên mình bộ áo dài được dệt từ những sợi chỉ vàng và kim tuyển càng tôn lên nhan sắc đến đỉnh thời bấy giờ.
Về nhà chồng, cô Bình luôn là người vợ hết mực chăm lo cho gia đình. Ông Bùi Tướng Viên cũng chưa bao giờ to tiếng với vợ, lúc nào cũng thể hiện sự tôn trọng như những người vợ đều cần. Họ đã sống những tháng ngà ngày hạnh phúc, nằm âm ấm bên nhau với những đứa con lần lượt ra đời.
Năm 1945, hưởng ứng cuộc phát động Tuần lễ vàng, người cha Đỗ Lợi đã từng Chính phủ Cách mạng lâm thời 45 lạng vàng và 18 càng biết thực. Sau này, cụ Lợi đã từng tổng cộng 31 lạng vàng và biết thực cho nhà nước.
Năm 1946, giặc Pháp bắn phá ác liệt Hà Nội, cô Bình cùng chúng con sớm tản lạc lên Tiên Lữ, Lấp Thạch, Vĩnh Phúc rồi sau đó là lên Tuyên Quang. 8 năm ấy, người đẹp vẫn được sống trong những lửa từ nhờ, hàng ngày chỉ biết đợi đền, đợi tiêu thuyết đã phải trải qua cuộc sống hết sức khó khăn như những người dân thương khác.
Để trang trải cuộc sống, bà xoay đủ thứ nghề từ làm bánh cuốn, bánh phở, bánh tẻ, bun thang, thậm chí làm nước tương. Nhờ ngày xưa được cha thuê đầu bếp của Bảo Đại về gia đình nhà lúc nửa đêm nấu được những bít kíp nếu như không phải ai cũng có được.
Từng là tiểu thư lẽ ngược cái vàng nay phải lao động như những người dân bình thường, cô Bình vẫn luôn giữ được khí chất con nhà nền nếp gia phong Hà thành vẫn đã thêm vào cô từ khi còn nhỏ. Dù là đi tận cùng cửa hàng nhưng thói quen như bắt đền trong bữa cơm gia đình luôn phải trắng nước sốt thật kỹ vẫn được cô lưu giữ.
Những ngày tháng ở Sơn Dương, khi dịch sốt rét đang hoành hành, cô Bình còn được bác sĩ Bùi Xuân Tâm (em trai của hoa sĩ Bùi Xuân Phái) dạy cho cách tiêm thuốc kilofooc. Nhờ vậy, cô đã cứu sống cho rất nhiều người thoát khỏi cơn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Cô được bà con vùng Sơn Dương yêu mến và gọi là “bà tiên kháng chiến”.
Năm 1954, sau 8 năm di tản, gia đình bà rời Tuyên Quang về lại ngôi nhà cũ ở 30 Nguyễn Thái Học. Năm 1986, chồng cô qua đời sau 10 năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Năm 1992, cô Bình qua đời, hưởng thọ 77 tuổi vì căn bệnh cao huyết áp. Sau khi ra đi, cô Bình được mặc một áo cánh màu vàng mơ gà trong cùng, bên ngoài là áo dài bằng vải lụa đen, ngoài cùng khoác chiếc áo dã Mộng Tự đen tuyền như di nguyện.