Viêm não Nhật Bản: Cách nhận biết và phòng ngừa bệnh do muỗi gây ra

Spread the love

Bài viết này đề cập đến viêm não Nhật Bản, triệu chứng, nguyên nhân và cách phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này.

Viêm não là trạng thái não bộ bị nhiễm trùng, dẫn tới hiện tượng như nhức đầu, sốt, co giật, và thậm chí là tử vong trong một số trường hợp nghiêm trọng. Một trong những bệnh viêm não nguy hiểm nhất hiện nay là viêm não Nhật Bản với khả năng tử vong khi nhiễm bệnh gần như là 100%.

Viêm não Nhật Bản là một bệnh nhiễm trùng do muỗi gây ra, là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến viêm não do virus trong khu vực Châu Á. Con người mắc bệnh khi bị muỗi mang virus truyền nhiễm, tuy nhiên căn bệnh này không thể truyền từ người sang người. Virus gây ra bệnh viêm não này có liên quan đến một vài loại virus khác như: virus viêm não St. Louis, virus viêm não Murray Valley, virus West Nile và virus gây ra bệnh sốt xuất huyết và vàng da.

Trong số những người mắc bệnh, chỉ khoảng gần 1% các ca bệnh là phát triển triệu chứng. Tuy nhiên, theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), căn bệnh này có thể gây tử vong cho 30% những người phát triển triệu chứng.

Con số những ca tử vong do viêm não Nhật Bản ước tính rơi vào khoảng 13.600 đến 20.400 người mỗi năm.

Đặc biệt, căn bệnh này phổ biến nhất tại Nhật Bản, sau đó là “vùng sống” toàn bộ Đông Nam Á.

Cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Thái Lan đều đã từng bùng phát dịch này trong quá khứ, cách kiểm soát của họ chủ yếu là bằng cách tiêm chủng phòng ngừa. Còn tại Việt Nam, Campuchia, Myanmar, Ấn Độ, Nepal, Malaysia thì đều phải trải qua tình trạng dịch bệnh này.

Một vài trường hợp đã xuất hiện tại miền Bắc nước Úc, nhưng để xét tính hình chung của cả lực lượng địa này thì rất ít bùng phát phổ biến là vô cùng thấp.

Ở những vùng ôn đới, khả năng lây lan bệnh cao nhất là vào mùa hè và đầu mùa thu, kéo dài suốt từ tháng 5 đến tháng 9.

Ở các vùng cận nhiệt và nhiệt đới, các mùa phụ thuộc vào lưu lượng mưa và tình trạng di cư của các loài chim. Do vậy, khả năng lây bệnh có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong năm. Căn bệnh này xuất hiện chủ yếu ở các vùng trồng lúa, ít khi xảy ra ở khu vực đô thị.

Muỗi là nhân vật trung gian lây truyền loại virus này do chúng hút máu từ các loài chim hoang dã hoặc lợn rừng bị nhiễm bệnh.

Từ đó, muỗi tiếp tục hành trình lây truyền loại virus nguy hiểm này sang người và động vật. Do chim không thể lây bệnh, nên muỗi là con đường duy nhất khiến virus viêm não Nhật Bản xâm nhập được vào cơ thể người.

Căn bệnh viêm não này thường không gây ra triệu chứng nào đặc biệt, có thể chỉ xuất hiện sau 5 – 15 ngày kể từ khi nhiễm bệnh.

Người bị nhiễm trùng nhẹ có thể chỉ xuất hiện sốt hoặc đau đầu, tuy nhiên khi vượt quá ngưỡng này, các triệu chứng sẽ nguy hiểm và phát triển nhanh chóng hơn.

Khi bước vào giai đoạn phát bệnh, bệnh nhân có thể bị đau đầu, sốt cao, run rẩy, buồn nôn, nôn, cứng cổ và tê liệt. Đây là vẻ mặt thể chất, còn về mặt tinh thần, những triệu chứng thường thấy ở người bị viêm não là choáng váng, mất phương hướng, hôn mê. Nếu tình trạng nghiêm trọng hơn có thể khiến người bệnh sau này xuất hiện các khuyết tật thần kinh như đờ đẫn, không kiểm soát cảm xúc được, gần như liệt một bên cơ thể.

Đặc biệt, đối với trẻ em thì khả năng co giật cũng như sống sót là rất cao.

Để chẩn đoán viêm não Nhật Bản, các bác sĩ sẽ xem xét các triệu chứng của bệnh nhân, nơi sống và những nơi từ đó đến thêm. Điều này giúp xác định nguyên nhân gây bệnh.

Nếu các bác sĩ nghi ngờ là viêm não, bệnh nhân sẽ phải trải qua các xét nghiệm như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) của não.

Bác sĩ cũng có thể lấy dịch ở thất lưng hoặc cột sống để xét nghiệm xem loại virus nào gây ra tình trạng viêm não.

Hiện tại chưa có biện pháp nào giúp điều trị tận gốc căn bệnh viêm não Nhật Bản, nhưng có một loại vaccine xin an toàn và phù hợp để ngăn ngừa loại bệnh này.

Vaccine xin được khuyến cáo sử dụng cho những người đi đến những khu vực có dịch bệnh, đặc biệt là với những chuyến đi ngắn hạn chưa đủ 1 tháng, và những người hay tham gia các hoạt động ngoài trời. Chung quy thì ai cũng cần được tiêm phòng vaccine xin để ngăn ngừa căn bệnh vỏ phức chứa này.

Khi đã mắc bệnh, việc điều trị chỉ có thể giảm các triệu chứng. Kể cả các thuốc kháng sinh lúc này cũng không có hiệu quả chống lại virus, và hiện cũng chưa phát hiện ra loại thuốc nào khác có khả năng chống virus hiệu quả.

Mỗi trẻ sẽ được tiêm 3 mũi theo lịch trình. Trẻ cần được tiêm mũi đầu tiên khi đủ 1 tuổi.

– Mũi thứ hai được tiêm sau mũi đầu tiên 1 – 2 tuần.

– Mũi thứ ba (cuối cùng) được tiêm sau mũi thứ hai 1 năm.

Ngoài lịch tiêm chủng căn bản trên, các bác phụ huynh cũng nên lưu ý việc lịch tiêm nhắc lại sau (1 mũi nhắc sau khoảng 3 năm lịch tiêm căn bản).

Việc sốt hoặc đau đầu, mệt mỏi sau khi tiêm phòng chỉ xuất hiện ở một số đối tượng, khả năng gặp tình trạng này là 5 – 10%.

Để đảm bảo an toàn, cha mẹ nên theo dõi tình trạng trẻ sau khi tiêm khoảng 30 phút, tránh tình trạng sốc phản vệ (tỷ lệ 1/1.000.000.000 mũi tiêm).

Nếu bạn quên tiêm hoàn thiện mũi 3 cho trẻ, bạn hoàn toàn có thể đưa trẻ đi tiêm bất kỳ lúc nào trong thời gian quy định hoặc tiêm lặp lại (trong trường hợp không nhớ đã tiêm hay chưa) không hề gây ra ảnh hưởng xấu đến sức khỏe trẻ nhỏ, thậm chí còn giúp cường kháng thể hiệu quả hơn.

Back To Top